Luật Đấu thầu 2013 đã góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh, minh bạch trong hoạt động đấu thầu. Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực thi, Luật đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần được sửa đổi. Bài viết này sẽ đi sâu phân tích những hạn chế đó.
Mục lục
- 1. Quy định về lựa chọn nhà đầu tư chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng đặc biệt trong các dự án PPP
- 2. Quy định về đấu thầu qua mạng còn hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng theo Luật Đấu thầu 2013
- 3. Quy định về xử lý vi phạm trong Luật Đấu thầu 2013 chưa đủ sức răn đe, thiếu tính thực thi
- 4. Quy định về giải quyết kiến nghị, tranh chấp trong đấu thầu còn phức tạp, kéo dài, thiếu hiệu quả
- 5. Một số quy định khác còn bất cập, gây khó khăn trong thực tiễn theo Luật Đấu thầu 2013
1. Quy định về lựa chọn nhà đầu tư chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng đặc biệt trong các dự án PPP
- Thiếu quy trình cụ thể cho dự án PPP có sử dụng đất: Luật Đấu thầu 2013 chưa có quy định rõ ràng về quy trình, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư đối với các dự án PPP có sử dụng đất. Điều này dẫn đến lúng túng trong triển khai, mỗi địa phương áp dụng một cách khác nhau, thiếu thống nhất, tiềm ẩn nguy cơ thất thoát, lãng phí.
-
- Ví dụ: Một số địa phương áp dụng quy trình đấu thầu rộng rãi, trong khi một số khác lại áp dụng hình thức chỉ định thầu, gây ra sự thiếu công bằng, minh bạch.
- Tiêu chí đánh giá hồ sơ dự thầu còn chung chung: Luật quy định các tiêu chí đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất còn mang tính định tính, thiếu các tiêu chí định lượng cụ thể. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá, so sánh các hồ sơ dự thầu, dễ xảy ra tình trạng cảm tính, thiếu khách quan.
-
- Ví dụ: Tiêu chí “năng lực kinh nghiệm” thường được đánh giá dựa trên số lượng dự án đã thực hiện mà ít chú trọng đến chất lượng, hiệu quả của các dự án đó.
- Thiếu quy định về việc công khai thông tin: Việc công khai thông tin trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư còn hạn chế, chưa đầy đủ dẫn đến khó khăn trong việc giám sát, kiểm tra.

2. Quy định về đấu thầu qua mạng còn hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng theo Luật Đấu thầu 2013
- Chưa bắt buộc áp dụng rộng rãi: Luật Đấu thầu mới ( Luật Đấu thầu 2023 số 22/2023/QH15) và Luật Đấu thầu 43 (Luật đấu thầu 2013 số 43/2013/QH13) đều hướng đến việc nâng cao tính minh bạch trong đấu thầu qua mạng. Tuy nhiên, Luật Đấu thầu 2013 chưa bắt buộc áp dụng đấu thầu qua mạng đối với tất cả các gói thầu, đặc biệt là các gói thầu có giá trị nhỏ. Điều này làm giảm hiệu quả của đấu thầu qua mạng, chưa tận dụng được lợi thế về tiết kiệm thời gian, chi phí và tăng cường tính minh bạch.
-
- Ví dụ: Nhiều gói thầu mua sắm hàng hóa thông dụng, dịch vụ tư vấn đơn giản vẫn được thực hiện theo hình thức đấu thầu truyền thống, gây lãng phí thời gian, chi phí in ấn, đi lại.
- Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia chưa hoàn thiện: Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia (VNEPS) còn thường xuyên gặp lỗi kỹ thuật, quá tải, gây khó khăn cho các bên tham gia đấu thầu, ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả của quá trình đấu thầu.
-
- Ví dụ: Tình trạng nghẽn mạng, không truy cập được hệ thống thường xuyên xảy ra vào thời điểm gần hết hạn nộp hồ sơ dự thầu, gây bức xúc cho nhà thầu.
- Thiếu nhân lực vận hành và hỗ trợ: Việc thiếu nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ để vận hành hệ thống và hỗ trợ người dùng cũng là một hạn chế lớn.
3. Quy định về xử lý vi phạm trong Luật Đấu thầu 2013 chưa đủ sức răn đe, thiếu tính thực thi
- Mức xử phạt hành chính còn thấp: Mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đấu thầu, theo Nghị định 50/2016/NĐ-CP, còn tương đối thấp so với tính chất và mức độ vi phạm, chưa đủ sức răn đe.
-
- Ví dụ: Hành vi thông thầu, dàn xếp kết quả đấu thầu chỉ bị phạt tiền từ 100 triệu đến 300 triệu đồng, mức phạt này chưa tương xứng với lợi ích bất hợp pháp mà các bên có thể thu được.
- Quy định về cấm tham gia hoạt động đấu thầu chưa cụ thể: Luật quy định chung chung về các trường hợp bị cấm tham gia hoạt động đấu thầu, thiếu các tiêu chí, thời hạn cấm cụ thể dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng trên thực tế.
-
- Ví dụ: Luật chưa quy định rõ thời hạn cấm tham gia đấu thầu đối với các nhà thầu vi phạm là bao lâu, dẫn đến tình trạng nhà thầu vi phạm vẫn có thể tham gia đấu thầu các gói thầu khác sau một thời gian ngắn.
- Thiếu cơ chế giám sát, phát hiện vi phạm hiệu quả: Việc giám sát, phát hiện các hành vi vi phạm trong đấu thầu còn hạn chế, chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan chức năng.
4. Quy định về giải quyết kiến nghị, tranh chấp trong đấu thầu còn phức tạp, kéo dài, thiếu hiệu quả
- Thủ tục rườm rà, nhiều tầng nấc: Quy trình giải quyết kiến nghị, tranh chấp qua nhiều cấp, nhiều bước, mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, gây tốn kém chi phí cho các bên.
-
- Ví dụ: Một vụ việc khiếu nại có thể kéo dài từ vài tháng đến vài năm, qua nhiều cấp giải quyết từ chủ đầu tư, người có thẩm quyền đến Hội đồng tư vấn giải quyết kiến nghị.
- Cơ chế giải quyết tranh chấp chưa hiệu quả: Cơ chế giải quyết tranh chấp hiện nay chủ yếu dựa vào con đường tố tụng hành chính, vốn mất nhiều thời gian và chi phí.
-
- Ví dụ: Việc khởi kiện ra tòa án hành chính thường kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia đấu thầu, đặc biệt là các nhà thầu nhỏ và vừa.
- Thiếu quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Luật Đấu thầu 2013 chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật về đấu thầu gây ra.

5. Một số quy định khác còn bất cập, gây khó khăn trong thực tiễn theo Luật Đấu thầu 2013
- Quy trình lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu còn phức tạp: Quy định phải lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho từng gói thầu, dù là gói thầu nhỏ, dẫn đến mất nhiều thời gian, công sức của chủ đầu tư.
- Quy định về bảo đảm dự thầu, bảo đảm thực hiện hợp đồng chưa linh hoạt: Quy định về hình thức, giá trị bảo đảm dự thầu, bảo đảm thực hiện hợp đồng còn cứng nhắc, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, gây khó khăn cho nhà thầu, đặc biệt là nhà thầu nước ngoài.
- Quy định về hợp đồng thiếu chặt chẽ: Luật chưa quy định đầy đủ về các loại hợp đồng, các điều khoản bắt buộc trong hợp đồng, dẫn đến tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Luật Đấu thầu 2013 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập sau gần 10 năm thực hiện. Những hạn chế này không chỉ gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư, nhà thầu mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, tạo kẽ hở cho tham nhũng, tiêu cực. Nếu bạn cần thêm thông tin hoặc có bất kỳ câu hỏi nào, hãy liên hệ trực tiếp với Pháp Luật Việt qua hotline 1900 996616 để được tư vấn chi tiết