Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự không chỉ là tập hợp các quy định pháp lý, mà còn là nền tảng dựa trên những nguyên tắc cốt lõi. Bài viết này sẽ đi sâu vào phân tích các nguyên tắc này, làm rõ vai trò của chúng trong việc đảm bảo tính minh bạch, công bằng và hiệu quả của hoạt động điều tra.
Mục lục
- 1. Các quy tắc trong tổ chức điều tra hình sự
- 2. Về giám sát tuân thủ pháp luật trong điều tra
- 3. Về các hành vi bị cấm
- 4. Về cơ cấu tổ chức của Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra
- 5. Về thẩm quyền điều tra
- a. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân
- b. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân
- c. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- d. Thẩm quyền và thời hạn điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
- e. Thẩm quyền của lực lượng Công an xã, phường, đồn, thị trấn
- 6. Về quan hệ phân công và phối hợp trong điều tra
- 7. Về chủ thể tiến hành hoạt động điều tra
1. Các quy tắc trong tổ chức điều tra hình sự
Điều 3 của Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự đã xác định một cách chi tiết và toàn diện các nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự. Theo đó, hoạt động điều tra hình sự phải tuân thủ bốn nguyên tắc chính: (1) tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; (2) bảo đảm sự chỉ đạo, chỉ huy tập trung, thống nhất, hiệu quả, phân công, phân cấp rõ ràng, chuyên sâu và được kiểm soát chặt chẽ; (3) cơ quan điều tra cấp dưới chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của cơ quan điều tra cấp trên; cá nhân chịu trách nhiệm trước cấp trên và pháp luật về hành vi, quyết định của mình; (4) chỉ cơ quan, người có thẩm quyền theo Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự mới được tiến hành hoạt động điều tra hình sự. Đây là những định hướng mang tính xuyên suốt mà các cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tuân theo trong quá trình tổ chức điều tra hình sự.
2. Về giám sát tuân thủ pháp luật trong điều tra
Nhằm khẳng định vai trò, vị trí và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra hình sự (phù hợp với Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi), Điều 11 quy định: Viện kiểm sát có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình điều tra. Các cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, đồng thời xem xét, giải quyết và phản hồi các kiến nghị của Viện kiểm sát theo luật định.
3. Về các hành vi bị cấm
So với Pháp lệnh năm 2004, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự đã bổ sung Điều 14, quy định về các hành vi bị nghiêm cấm, bao gồm: (1) Làm sai lệch hồ sơ vụ án, gây oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, can thiệp trái pháp luật vào quá trình điều tra; (2) Sử dụng bức cung, nhục hình, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; (3) Cản trở quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, quyền khiếu nại, tố cáo của người khác; (4) Cản trở người bào chữa, người thực hiện trợ giúp pháp lý trong việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

4. Về cơ cấu tổ chức của Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra
a. Về cơ quan điều tra chuyên trách
Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự về cơ bản giữ nguyên hệ thống cơ quan điều tra chuyên trách trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân tối cao như Pháp lệnh năm 2004. Tuy nhiên, có sự kiện toàn, sắp xếp lại trong một số hệ thống. Cụ thể:
- Để tăng cường tính chuyên trách và sự phối hợp giữa hoạt động điều tra trinh sát và điều tra theo tố tụng, Luật quy định hợp nhất Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng và Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ thành Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ. Đồng thời, thành lập mới Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu) thuộc Bộ Công an. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh, thành lập Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu.
- Luật cũng quy định một số nội dung mới phù hợp với Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, theo đó, Cơ quan điều tra VKSNDTC gồm các Phòng điều tra và bộ máy giúp việc; Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương gồm Ban điều tra và bộ phận giúp việc.
b. Về các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Luật bổ sung một số cơ quan được giao nhiệm vụ này, bao gồm Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (cấp bộ), Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm công nghệ cao (cấp tỉnh) và các cơ quan Kiểm ngư (Cục Kiểm ngư, Chi cục Kiểm ngư vùng).
Để đảm bảo các tố giác, tin báo về tội phạm được tiếp nhận và xử lý kịp thời, Luật bổ sung cơ quan Kiểm ngư vào danh sách các cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra. Đồng thời, giảm bớt 198 đầu mối các cơ quan này trong lực lượng Công an nhân dân (bao gồm 2 Cục, 126 Phòng và 70 Trại tạm giam).
Các cơ quan của Bộ đội biên phòng được giao nhiệm vụ điều tra gồm Cục Trinh sát biên phòng, Cục Phòng, chống ma túy và tội phạm, Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm, Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng cấp tỉnh, Ban chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu cảng, Đồn biên phòng. So với Pháp lệnh 2004, bổ sung thêm Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm và Ban chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu cảng.
Các cơ quan thuộc Hải quan được giữ nguyên về tổ chức như Pháp lệnh năm 2004.
Các cơ quan của Kiểm lâm được giao nhiệm vụ điều tra gồm Cục Kiểm lâm, Chi cục Kiểm lâm vùng, Chi cục Kiểm lâm cấp tỉnh, Hạt Kiểm lâm. So với Pháp lệnh 2004, bổ sung Chi cục Kiểm lâm vùng và bỏ Hạt phúc kiểm lâm sản.
Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển được giao nhiệm vụ điều tra gồm Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Bộ Tư lệnh vùng Cảnh sát biển, Cục Nghiệp vụ và pháp luật, Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy, Hải đoàn, Hải đội, Đội nghiệp vụ. So với Pháp lệnh năm 2004, tên đơn vị và chức danh người đứng đầu các đơn vị Cảnh sát biển đã được điều chỉnh phù hợp với tổ chức mới.
5. Về thẩm quyền điều tra
a. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân
Luật quy định tăng thẩm quyền điều tra cho cấp cơ sở, tạo điều kiện cho cấp trung ương và cấp tỉnh thực hiện tốt công tác hướng dẫn, chỉ đạo. Đồng thời, bổ sung thẩm quyền cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, cho phép điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, xảy ra trên nhiều tỉnh, thành phố hoặc tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia nếu xét thấy cần thiết, cũng như các vụ án đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại.
Đối với Cơ quan An ninh điều tra (ANĐT) của Bộ Công an, Luật bổ sung thẩm quyền điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại, và cho Cơ quan ANĐT Công an cấp tỉnh điều tra các vụ án hình sự về tội phạm khác liên quan đến an ninh quốc gia hoặc để đảm bảo khách quan theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Công an.
b. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân
Cơ quan An ninh điều tra trong Quân đội được bổ sung thẩm quyền điều tra các tội khủng bố, tội tài trợ khủng bố. Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng được quyền điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng Thẩm phán Tòa án quân sự hủy để điều tra lại.
c. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Luật mở rộng thẩm quyền điều tra cho Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương về loại tội phạm, tội danh mới trong Bộ luật Hình sự và diện đối tượng phạm tội, cụ thể:
- Mở rộng thẩm quyền điều tra tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.
- Bổ sung thẩm quyền điều tra hành vi phạm tội của những người có thẩm quyền thực hiện các hoạt động tư pháp, cũng như các đối tượng phạm tội thuộc các đơn vị Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (cấp bộ), Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm công nghệ cao (cấp tỉnh) và các cơ quan Kiểm ngư và lực lượng Công an các xã, phường, Đồn, thị trấn.
- Mở rộng thẩm quyền điều tra một số tội phạm quy định tại Chương 14 Bộ luật Hình sự.

d. Thẩm quyền và thời hạn điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Luật tăng thời hạn điều tra cho các cơ quan này. Đối với tội phạm ít nghiêm trọng, trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, thời hạn điều tra là 30 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
e. Thẩm quyền của lực lượng Công an xã, phường, đồn, thị trấn
Luật không quy định lực lượng này là cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, Luật bổ sung quy định cho phép lực lượng này tiếp nhận, kiểm tra thông tin ban đầu về tố giác, tin báo tội phạm.
6. Về quan hệ phân công và phối hợp trong điều tra
Luật xác định rõ mối quan hệ giữa hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt động trinh sát, đồng thời phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra.
Đối với vụ việc có dấu hiệu phạm tội mà chưa xác định rõ thẩm quyền điều tra, cơ quan điều tra nào phát hiện trước phải áp dụng ngay các hoạt động điều tra theo quy định, sau đó chuyển vụ án cho cơ quan có thẩm quyền khi đã xác định được.
7. Về chủ thể tiến hành hoạt động điều tra
a. Về Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
Luật quy định rõ ngoài trách nhiệm trong tố tụng tư pháp, Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra còn có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm hành chính tư pháp như chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ điều tra của cơ quan điều tra cấp dưới, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền.
b. Về Điều tra viên
Luật quy định ngoài thẩm quyền và trách nhiệm trong tố tụng hình sự, Điều tra viên không được làm những việc mà cán bộ, công chức, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân không được làm, không được đưa hồ sơ, tài liệu ra khỏi cơ quan nếu không vì nhiệm vụ, không được tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định. Luật quy định Điều tra viên có 3 ngạch (Sơ cấp, Trung cấp, Cao cấp) và phải thi tuyển ngạch. Nhiệm kỳ bổ nhiệm lần đầu là 05 năm, bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch là 10 năm.
c. Về Cán bộ điều tra
Luật bổ sung chức danh Cán bộ điều tra là người tiến hành tố tụng để phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với Cán bộ điều tra của các Cơ quan điều tra chuyên trách, Luật quy định là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực điều tra hình sự, giúp Điều tra viên thực hiện một số hoạt động điều tra. Đối với Cán bộ điều tra thuộc cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra là người được Thủ trưởng cơ quan phân công giúp Thủ trưởng cơ quan tiến hành xác minh, điều tra theo từng vụ việc, vụ án được phát hiện.
Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo minh bạch và hiệu quả hoạt động điều tra. Hiểu rõ luật giúp áp dụng đúng thẩm quyền và trách nhiệm. Nếu thắc mắc, vui lòng liên hệ Pháp Luật Việt qua hotline 1900 996616 để được tư vấn chi tiết.