Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Những tình tiết này giúp cá thể hóa hình phạt và thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật. Bài viết phân tích chi tiết các tình tiết giảm nhẹ này.
1. Khái quát về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, thể hiện thái độ, nhân thân, hoàn cảnh của người phạm tội, được Tòa án xem xét khi quyết định hình phạt, cho phép xử phạt người phạm tội dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng hoặc chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn hoặc có thể miễn hình phạt.

2. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015
Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm: Tình tiết này thể hiện ý thức chủ động của người phạm tội trong việc hạn chế hậu quả xấu do hành vi phạm tội của mình gây ra. Ví dụ: Sau khi trộm cắp tài sản, người phạm tội đã chủ động trả lại tài sản cho người bị hại trước khi bị phát hiện.
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả: Tình tiết này thể hiện sự ăn năn, hối cải của người phạm tội, mong muốn bù đắp những thiệt hại do mình gây ra. Ví dụ: Người phạm tội cố ý gây thương tích đã tự nguyện thanh toán chi phí điều trị cho người bị hại.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội có hành vi chống trả quá mức cần thiết đối với hành vi xâm hại của người khác, dẫn đến phạm tội. Ví dụ: Bị tấn công bằng tay không, nhưng lại dùng dao đâm lại, gây thương tích nặng cho người tấn công.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Ví dụ: Để cứu nhiều người đang bị mắc kẹt trong đám cháy, người phạm tội đã phá cửa nhà bên cạnh để lấy nước dập lửa.
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội dùng vũ lực quá mức cần thiết để bắt giữ người đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc đang bị truy nã, dẫn đến gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người bị bắt giữ.
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật của nạn nhân. Ví dụ: Bị người khác sỉ nhục, lăng mạ nặng nề dẫn đến mất kiểm soát và đánh người đó gây thương tích.
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội do bị đẩy vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, éo le, không phải do lỗi của họ. Ví dụ: Mẹ đơn thân vì quá túng quẫn, không có tiền mua sữa cho con nên đã trộm cắp hộp sữa trong siêu thị.
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn: Tình tiết này áp dụng khi hành vi phạm tội chưa gây ra thiệt hại hoặc thiệt hại gây ra trên thực tế là không đáng kể.
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội chưa có tiền án, tiền sự và hành vi phạm tội thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm).
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội do bị người khác ép buộc bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực.
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị hạn chế khả năng nhận thức do bệnh lý hoặc do tác động khách quan (không phải do sử dụng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác).
- Phạm tội do lạc hậu: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội có trình độ nhận thức, văn hóa thấp kém, lạc hậu dẫn đến hạn chế trong việc nhận thức đúng đắn về hành vi của mình.
- Người phạm tội là phụ nữ có thai: Tình tiết này thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật đối với phụ nữ có thai, nhằm bảo vệ sức khỏe của người mẹ và thai nhi.
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên: Tình tiết này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người cao tuổi.
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng: Tình tiết này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người khuyết tật, những người gặp khó khăn trong cuộc sống.
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội mắc bệnh dẫn đến bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, nhưng chưa đến mức mất hẳn khả năng này.
- Người phạm tội tự thú: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, đã tự nguyện khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình trước khi bị phát hiện.
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải: Tình tiết này thể hiện thái độ thành khẩn, trung thực của người phạm tội trong quá trình khai báo, thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình.
- Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội có những hành động tích cực giúp đỡ cơ quan có thẩm quyền trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội: Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội có hành động lập công, giúp đỡ cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội.
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác: Tình tiết này ghi nhận sự đóng góp, cống hiến của người phạm tội cho xã hội.
- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng (Điểm x): Tình tiết này thể hiện chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với gia đình có công với cách mạng.
3. Nguyên tắc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của trường hợp phạm tội cụ thể giảm đi, là một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án quyết định hình phạt cụ thể đối với người phạm tội. Các tình tiết giảm nhẹ được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự hiện hành. Ngoài ra tòa án có thể coi đầu thú là một trong những tình tiết giảm nhẹ. Trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, tòa án có thể xem xét đưa ra quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất hoặc chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn.
Trường hợp xử phạt dưới dưới mức thấp nhất tòa án phải nêu được lý do và tuân theo những quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có nội dung như sau:
“1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
2.Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
3.Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản có các khung
“i) [phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù 06 tháng – 03 năm]
ii) [Phạt tù 02 – 07 năm]
iii) [Phạt tù 07 – 15 năm]
iv) [Phạt tù 12 – 20 năm]”
Giả định Tòa án xác định người phạm tội thuộc khung iii) nhưng do có 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 nên Tòa án có sử dụng quy định tại Điều Luật này để tuyên mức án nằm trong khung ii) nhưng không được xuống tới khung i)
Giả định Tòa án xác định người phạm tội thuộc khung iii) thì khi vận dụng quy định này Tòa có thể ra quyết định phạt trong khung i) mà không bắt buộc là khung ii), lưu ý là không bắt buộc chứ không phải là không, nghĩa là Tòa vẫn có quyền tuyên quyết định phạt ở khung ii) nếu xét thấy phù hợp.
Ví dụ: Khung hình phạt là [03 – 07 năm tù] và đã là khung thấp nhất thì Tòa có thể tuyên dưới 03 năm hoặc chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tiền,… tùy từng trường hợp cụ thể. Và lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Nếu bạn cần thêm thông tin hoặc có bất kỳ câu hỏi nào, hãy liên hệ trực tiếp với Pháp Luật Việt qua hotline 1900 996616 để được tư vấn chi tiết. Chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn giải đáp mọi thắc mắc về các vấn đề pháp lý liên quan. Đừng ngần ngại liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất!