Chia tài sản thừa kế là vấn đề phức tạp, tiềm ẩn nhiều tranh chấp. Bài viết này phân tích các tình huống chia thừa kế thường gặp theo di chúc và pháp luật, giúp bạn nắm rõ quyền lợi, nghĩa vụ, từ đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp theo Bộ luật Dân sự 2015.
1. Hướng dẫn chia thừa kế trong các tình huống chia tài sản thừa kế
Tham khảo cách chia thừa kế theo di chúc và theo pháp luật dưới đây:
Bước 1: Xác định di sản thừa kế;
Bước 2: Chia thừa kế theo di chúc;
Bước 3: Chia thừa kế theo pháp luật;
Bước 4: Tính 2/3 cho một suất thừa kế cho những người thuộc Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015;
Lưu ý:
Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
+ Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
+ Con thành niên mà không có khả năng lao động.
– Quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015.
*Lưu ý: Không phải trường hợp nào cũng đầy đủ các bước như trên, có trường hợp có thể gồm 2 hoặc 3 bước.

2. Các tình huống chia tài sản thừa kế thường gặp
Trong thực tế, các tình huống chia tài sản thừa kế không chỉ xoay quanh việc phân định quyền lợi giữa những người thừa kế mà còn tiềm ẩn nhiều tranh chấp do khác biệt về quan điểm, di chúc và quy định pháp luật. Mời bạn xem chi tiết các tình huống dưới đây:
Tình huống 1:
Bố anh Nam lập di chúc viết tay (không công chứng, chứng thực) để lại toàn bộ tài sản cho anh vào ngày 12/01/2021. Đầu năm 2022, bố anh mất. Anh trai và chị gái anh tranh chấp, cho rằng di chúc không hợp pháp vì không công chứng, chứng thực. Vậy di chúc viết tay của bố anh có hợp pháp không?
Trả lời:
Di chúc viết tay của bố anh Nam có thể hợp pháp dù không công chứng, chứng thực nếu đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015:
- Về người lập: Bố anh Nam phải minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép khi lập di chúc (khoản 1 Điều 630).
- Về nội dung và hình thức: Nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Hình thức di chúc phải tuân thủ quy định, ở đây là di chúc bằng văn bản (khoản 1 Điều 630 và Điều 627).
Như vậy, di chúc của bố anh Nam dù không công chứng, chứng thực nhưng vẫn có thể có hiệu lực pháp luật nếu thỏa mãn các điều kiện nêu trên.
Tình huống 2:
Ngày 20/10/2021, anh Hà bị tai nạn giao thông, trên xe cấp cứu, anh trăn trối với bác sĩ và điều dưỡng viên rằng muốn để lại toàn bộ tiền tiết kiệm cho vợ (bà Lan) và ngôi nhà cho chị Mỹ (người yêu cũ). Di nguyện này có hợp pháp không?
Trả lời:
Di nguyện của anh Hà có thể được coi là di chúc miệng và có thể hợp pháp nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 629 và khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015:
- Hoàn cảnh: Tính mạng anh Hà bị cái chết đe dọa, không thể lập di chúc bằng văn bản (Điều 629).
- Nhân chứng: Có ít nhất hai người làm chứng (bác sĩ và điều dưỡng viên) và họ phải thỏa mãn điều kiện tại Điều 632, tức là không phải người thừa kế theo di chúc/pháp luật của anh Hà, không có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan đến nội dung di chúc, và phải đủ năng lực hành vi dân sự.
- Ghi chép và xác nhận: Ngay sau khi anh Hà thể hiện ý chí, những người làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày anh Hà thể hiện ý chí cuối cùng, di chúc miệng phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng (khoản 5 Điều 630).
Nếu di chúc miệng của anh Hà đáp ứng đủ các điều kiện trên, nó sẽ có hiệu lực pháp luật sau khi anh qua đời. Cần lưu ý thêm, theo khoản 2 Điều 629, sau 03 tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà anh Hà còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.
Tình huống 3:
Ông L kết hôn với bà N năm 1970, có 3 con là A, B, T. Ông L mất năm 2019 không để lại di chúc. Năm 2022, gia đình họp bàn chia di sản (2 căn nhà và 300 triệu đồng). Bà N, B, T thống nhất chia 2 nhà cho B và T, 300 triệu chia đều cho 4 người (N, B, T, A). Chị A không đồng ý, yêu cầu được hưởng phần giá trị từ 2 căn nhà. Quan điểm của chị A đúng hay sai?
Trả lời:
Quan điểm của chị A là đúng. Theo Điều 610 Bộ luật Dân sự 2015, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền hưởng di sản thừa kế. Do ông L không để lại di chúc, di sản sẽ được chia theo pháp luật theo Điều 650 và Điều 651.
Bà N, A, B, T thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông L (điểm a khoản 1 Điều 651) và được hưởng phần di sản bằng nhau (khoản 2 Điều 651). Do đó, chị A có quyền yêu cầu hưởng phần giá trị tương ứng từ 2 căn nhà, không phụ thuộc vào thỏa thuận của các thành viên còn lại.
Tình huống 4:
Anh Hoàng là con duy nhất của ông Tân. Ông Tân chết ngày 01/01/2022, để lại di chúc cho anh Hoàng hưởng toàn bộ di sản. Trước đó, anh Hoàng nợ công ty A số tiền lớn do làm ăn thua lỗ. Sau khi bố chết, anh Hoàng từ chối nhận di sản. Công ty A khởi kiện, yêu cầu bác bỏ quyền từ chối của anh Hoàng. Yêu cầu của công ty A có căn cứ không?
Trả lời:
Yêu cầu của công ty A có thể có căn cứ. Theo khoản 1 Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, nhưng không được từ chối nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản.
Trong trường hợp này, nếu công ty A chứng minh được việc anh Hoàng từ chối nhận di sản là để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, thì yêu cầu bác bỏ quyền từ chối của anh Hoàng là có cơ sở pháp lý. Việc từ chối phải được lập thành văn bản, gửi đến người liên quan và thực hiện trước thời điểm phân chia di sản (khoản 2, khoản 3 Điều 620).
Tình huống 5:
Bà X có chồng là ông Y và 3 con là A, B, C (đều đã thành niên). Bà X chết đầu năm 2021 do tai nạn, để lại tài sản riêng là nhà và đất 500m2. Ông Y đưa bà H về sống chung cuối năm 2021. Các con muốn chia di sản nhưng ông Y không đồng ý, cho rằng mình là chồng nên được hưởng toàn bộ. Quan điểm của ông Y đúng không?
Trả lời:
Quan điểm của ông Y là sai. Do bà X không để lại di chúc, di sản sẽ được chia theo pháp luật theo Điều 650 và Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015. Ông Y, A, B, C thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà X (điểm a khoản 1 Điều 651) và sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau (khoản 2 Điều 651). Việc ông Y chung sống với người phụ nữ khác không ảnh hưởng đến quyền thừa kế của ông, nhưng ông không có quyền hưởng toàn bộ di sản của bà X.
Tình huống 6:
Ông Hòa có vợ là bà Bình và 2 con: anh Thái (con riêng với vợ trước đã mất) và chị Lan (con chung). Ông Hòa lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho anh Thái. Bà Bình và chị Lan yêu cầu anh Thái trả cho mỗi người 2/3 suất thừa kế theo pháp luật. Anh Thái không đồng ý. Yêu cầu của bà Bình và chị Lan có đúng không?
Trả lời:
Yêu cầu của bà Bình là đúng, nhưng yêu cầu của chị Lan là sai.
Theo Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015, vợ (bà Bình) là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc và được hưởng 2/3 suất thừa kế theo pháp luật dù không được cho hưởng di sản trong di chúc (điểm a khoản 1 Điều 644).
Tuy nhiên, chị Lan đã thành niên, có khả năng lao động, không thuộc đối tượng được hưởng 2/3 suất thừa kế theo pháp luật trong trường hợp này (điểm b khoản 1 Điều 644). Do đó, yêu cầu của chị Lan là không có cơ sở.
Tình huống 7:
Bà Thân 80 tuổi, mắt mờ, trí nhớ kém, sống với con gái là chị Hằng. Bà Thân hay kể với chị Hằng việc bị con trai là anh Thủy ngược đãi, bỏ đói. Bà Thân chết tháng 2/2022 không để lại di chúc. Anh Thủy đòi chia di sản nhưng chị Hằng không đồng ý vì cho rằng anh Thủy không có quyền hưởng. Quan điểm của chị Hằng đúng không?
Trả lời:
Quan điểm của chị Hằng có thể đúng. Con cái có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ (khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014). Theo điểm b khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015, nếu chị Hằng chứng minh được anh Thủy vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng, ngược đãi bà Thân (bị kết án về hành vi ngược đãi hoặc có bằng chứng về việc ngược đãi), thì anh Thủy có thể không được quyền hưởng di sản.
Tình huống 8:
Ông Hạ mắt kém, nhờ người đánh máy di chúc và nhờ ông Mùi (hàng xóm) làm chứng. Việc chỉ nhờ một người làm chứng có đúng không?
Trả lời:
Việc ông Hạ chỉ nhờ một người làm chứng là sai. Theo Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015, khi người lập di chúc không tự viết tay mà nhờ người khác đánh máy thì phải có ít nhất hai người làm chứng.

Tình huống 9:
Bà Đào Thị Mai muốn lập di chúc tại UBND cấp xã, thủ tục như thế nào?
Trả lời:
Thủ tục lập di chúc tại UBND cấp xã được quy định tại Điều 636 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể như sau:
- Bước 1: Bà Mai tuyên bố nội dung di chúc trước người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã.
- Bước 2: Người có thẩm quyền ghi chép lại nội dung di chúc.
- Bước 3: Bà Mai ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận nội dung đúng.
- Bước 4: Người có thẩm quyền ký vào bản di chúc.
Lưu ý: Nếu bà Mai không đọc, không nghe được, không ký/điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt người có thẩm quyền. Người có thẩm quyền sẽ chứng nhận di chúc trước mặt bà Mai và người làm chứng (khoản 2 Điều 636).
Tình huống 10:
Bà Đỗ Thị Nhị bị Covid-19, đang điều trị tại Bệnh viện, bà lập di chúc viết tay. Di chúc này có giá trị như di chúc công chứng, chứng thực không?
Trả lời:
Di chúc viết tay của bà Nhị có thể có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực nếu có xác nhận của người phụ trách bệnh viện nơi bà đang điều trị theo khoản 3 Điều 638 Bộ luật Dân sự 2015.
Tình huống 11:
Ông Nghĩ có 3 con, vợ đã mất. Năm 2019, ông lập di chúc để lại tài sản cho 3 con. Cuối năm 2021, ông sống chung với bà Lan và muốn sửa di chúc để cho bà Lan hưởng một phần. Ông Nghĩ có được sửa di chúc không?
Trả lời:
Ông Nghĩ có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào theo Điều 640 Bộ luật Dân sự 2015. Do đó, ông Nghĩ hoàn toàn có thể sửa đổi di chúc năm 2019 để bổ sung bà Lan vào danh sách người thừa kế.
Tình huống 12:
Cha anh Đồng để lại di chúc: 300 triệu chia đều cho anh Đồng, chị Tiến, chị Đại; nhà và đất 200m2 dùng để thờ cúng, giao anh Đồng quản lý. Anh Đồng muốn chia một phần đất để bán trả nợ nhưng chị Tiến và chị Đại không đồng ý. Anh Đồng có quyền yêu cầu chia phần đất dùng vào việc thờ cúng không?
Trả lời:
Anh Đồng không có quyền yêu cầu chia phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Theo di chúc, phần di sản này (nhà và đất 200m2) không được chia thừa kế mà dùng vào việc thờ cúng theo khoản 1 Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015.
Tuy nhiên, nếu anh Đồng không thực hiện đúng di chúc về việc thờ cúng, chị Tiến và chị Đại có quyền giao phần di sản này cho người khác quản lý để thờ cúng (khoản 1 Điều 645).
Tình huống 13:
Ông Trọng có 5 con: Nương, Vương, Hường, Cảnh, Khánh. Bà Nương có 2 con là Hải và Nam. Bà Nương chết năm 2018. Ông Trọng chết năm 2021 không để lại di chúc. Ông Cảnh cho rằng chỉ 4 người con còn sống của ông Trọng được hưởng di sản. Anh Nam (con bà Nương) không đồng ý. Quan điểm của ai đúng?
Trả lời:
Quan điểm của anh Nam là đúng. Đây là trường hợp thừa kế thế vị theo Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015. Vì bà Nương (con ông Trọng) chết trước ông Trọng nên anh Nam và anh Hải (cháu ông Trọng) sẽ được hưởng phần di sản mà lẽ ra bà Nương được hưởng nếu còn sống.
Tình huống 14:
Bà Hà muốn lập di chúc nhưng đi lại khó khăn. Bà có thể yêu cầu công chứng viên đến nhà lập di chúc không? Thủ tục thế nào?
Trả lời:
Bà Hà có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc theo khoản 1 Điều 639 Bộ luật Dân sự 2015. Thủ tục lập di chúc tại nhà cũng giống như tại tổ chức hành nghề công chứng (khoản 2 Điều 639), được quy định cụ thể tại Điều 636, bao gồm các bước sau:
- Bước 1: Bà Hà tuyên bố nội dung di chúc trước công chứng viên.
- Bước 2: Công chứng viên ghi chép lại nội dung di chúc.
- Bước 3: Bà Hà ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận nội dung đúng.
- Bước 4: Công chứng viên ký vào bản di chúc.
Lưu ý: Nếu bà Hà không đọc, không nghe được, không ký/điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên. Công chứng viên sẽ chứng nhận di chúc trước mặt bà Hà và người làm chứng (khoản 2 Điều 636).
Nếu bạn cần thêm thông tin hoặc có bất kỳ câu hỏi nào, hãy liên hệ trực tiếp với Pháp Luật Việt qua hotline 1900 996616 để được tư vấn chi tiết.