Luật công chứng 2006: Những điểm bất cập

04/03/2025

Luật Công chứng 2006, có hiệu lực từ 01/7/2007, đánh dấu sự xã hội hóa mạnh mẽ trong lĩnh vực công chứng, giúp nâng cao chất lượng và số lượng tổ chức hành nghề. Tuy nhiên, quá trình áp dụng thực tế vẫn bộc lộ một số bất cập cần khắc phục.

1. Về tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên quy định tại Điều 15, Điều 17 Luật Công chứng 2006

Điều 15 và 17 của Luật Công chứng 2006 liệt kê các trường hợp được miễn đào tạo và tập sự hành nghề công chứng, bao gồm: “Thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên đã có thời gian công tác từ ba năm trở lên; luật sư hành nghề từ ba năm trở lên; giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật; thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật”.

Nhìn chung, đây là những người có chức danh, học hàm, học vị cao, sở hữu trình độ pháp luật tương đối vững vàng.

Tuy nhiên, công chứng là một nghề nghiệp đặc thù, bên cạnh kiến thức pháp luật và xã hội, còn đòi hỏi kỹ năng chuyên môn riêng biệt. Thực tế cho thấy, nhiều công chứng viên được bổ nhiệm từ diện miễn đào tạo và tập sự, nhưng chưa từng có kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực công chứng, đã gặp không ít khó khăn, lúng túng khi hành nghề.

Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đội ngũ công chứng viên, dẫn đến việc tạo ra các văn bản công chứng kém chất lượng, làm phát sinh tranh chấp dân sự trong một số vụ việc. Hệ quả này có thể kéo dài, bởi tranh chấp từ văn bản công chứng không chỉ xảy ra trong ngắn hạn mà còn có thể phát sinh nhiều năm sau đó.

Ngoài ra, Luật Công chứng hiện hành chưa quy định về giới hạn độ tuổi hành nghề, điều này chưa thực sự phù hợp. Hoạt động công chứng không chỉ yêu cầu kỹ năng nghiệp vụ mà còn đòi hỏi tư duy sắc bén, sự tinh thông và “nhạy cảm” nghề nghiệp. Công chứng viên lớn tuổi có thể gặp hạn chế về sức khỏe, khó đáp ứng đầy đủ những yêu cầu khắt khe này.

2. Về trình tự, thủ tục chung công chứng Hợp đồng, giao dịch quy định tại Điều 35, Điều 36 Luật Công chứng

Khoản 1 Điều 35 và Điều 36 của Luật Công chứng 2006 quy định khá chi tiết về hồ sơ yêu cầu công chứng. Tuy nhiên, một số quy định còn mang tính khái quát, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong cách hiểu và áp dụng giữa các tổ chức hành nghề công chứng. Ví dụ như quy định về “Bản sao giấy tờ tùy thân” và “Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có”.

Những quy định mở này tuy trao quyền chủ động cho công chứng viên trong việc xác minh tính hợp pháp, xác thực của hợp đồng, giao dịch, nhưng cũng tạo ra kẽ hở cho việc áp dụng pháp luật một cách tùy tiện nhằm thu hút hoặc gây khó dễ cho khách hàng. Luật Công chứng không thể liệt kê chi tiết từng loại giấy tờ cho mọi trường hợp, nhưng nên quy định rõ những loại giấy tờ nào có thể chấp nhận được trong cùng một trường hợp để “chuẩn hóa” việc áp dụng pháp luật trong hoạt động công chứng.

luat-cong-chung-2006
Trình tự, thủ tục chung công chứng Hợp đồng

Về trình tự công chứng, khoản 2 Điều 35 quy định: “…Khi nộp bản sao thì người yêu cầu công chứng phải xuất trình bản chính để đối chiếu”. Việc yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu ngay khi nộp hồ sơ là chưa hợp lý. Trên thực tế, việc đối chiếu bản chính với bản sao trong hồ sơ thường được thực hiện trước khi công chứng viên cho người yêu cầu công chứng ký vào hợp đồng, giao dịch.

Điều này giúp người yêu cầu công chứng không phải xuất trình bản chính hai lần, tránh phiền hà, nhầm lẫn, hoặc mất mát giấy tờ gốc. Hơn nữa, nếu khách hàng đã xuất trình bản chính để đối chiếu khi nộp hồ sơ, thì đến thời điểm ký công chứng, công chứng viên vẫn phải yêu cầu xuất trình lại bản chính để nhận dạng người, đối chiếu giấy tờ tùy thân và đảm bảo tài sản không bị đem đi giao dịch ở nơi khác.

Ngoài ra, khoản 3 Điều 35 quy định việc thụ lý “ghi vào sổ công chứng” ngay sau khi tiếp nhận hồ sơ cũng chưa phù hợp. Thực tế cho thấy, việc ghi vào sổ công chứng thường chỉ được thực hiện sau khi đã đóng dấu công chứng (hoàn tất việc công chứng). Bởi lẽ, nhiều trường hợp khách hàng sau khi nộp hồ sơ và hẹn ngày ký lại thay đổi ý định giao kết. Do đó, để tránh việc phải tẩy xóa sổ công chứng, việc ghi sổ chỉ nên thực hiện sau khi đã hoàn tất thủ tục công chứng.

3. Quy định về địa điểm công chứng tại Điều 39 Luật Công chứng 2006

Luật Công chứng 2006 quy định việc công chứng phải diễn ra tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng. Tuy nhiên, luật cũng cho phép thực hiện công chứng ngoài trụ sở trong một số trường hợp ngoại lệ như: người yêu cầu công chứng là người già yếu, đi lại khó khăn; người đang bị tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù; hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở.

Vấn đề nằm ở cụm từ “lý do chính đáng khác” quá chung chung, tạo điều kiện cho các tổ chức hành nghề công chứng lách luật, thực hiện công chứng ngoài trụ sở tràn lan. Điều này khiến cho việc quản lý công chứng ngoài trụ sở trở thành vấn đề “nóng”, gây nhiều khó khăn trong thời gian qua.

4. Về quy định công chứng Hợp đồng thế chấp bất động sản tại Điều 47 Luật Công chứng 2006

Khoản 3 Điều 47 Luật Công chứng 2006 quy định về việc công chứng bất động sản đã thế chấp. Cụ thể, nếu một bất động sản đã được thế chấp và hợp đồng thế chấp đã được công chứng, sau đó tiếp tục được thế chấp cho một nghĩa vụ khác trong phạm vi pháp luật cho phép, thì các hợp đồng thế chấp tiếp theo phải do công chứng viên đã công chứng hợp đồng lần đầu thực hiện. Quy định này chỉ trừ trường hợp công chứng viên đó đã chuyển sang tổ chức hành nghề khác hoặc không còn hành nghề.

Tuy nhiên, trên thực tế, có những trường hợp công chứng viên công chứng lần đầu không thuộc hai trường hợp ngoại lệ trên mà chỉ tạm thời nghỉ phép hoặc vắng mặt. Nếu áp dụng cứng nhắc quy định này, các bên liên quan có thể phải chờ đợi, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh do phải chờ công chứng viên đó quay trở lại làm việc.

5. Quy định về chế độ lưu trữ hồ sơ công chứng Điều 54 Luật Công chứng 2006

Khoản 2 Điều 54 Luật Công chứng 2006 quy định về thời hạn lưu trữ hồ sơ công chứng như sau: “Bản chính văn bản công chứng phải được lưu trữ trong thời hạn ít nhất là hai mươi năm; các giấy tờ khác trong hồ sơ công chứng phải được lưu trữ trong thời hạn ít nhất là năm năm“. Quy định này chưa thực sự hợp lý bởi hồ sơ lưu trữ đóng vai trò quan trọng trong việc điều tra, xác minh khi có tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến việc công chứng.

Các giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng là căn cứ quan trọng để chứng minh tính xác thực, hợp pháp của văn bản công chứng, đồng thời thể hiện quá trình tác nghiệp của công chứng viên.

Nếu các giấy tờ phụ trong hồ sơ bị tiêu hủy sau 5 năm lưu trữ, chỉ còn lại bản chính văn bản công chứng, thì khi xảy ra tranh chấp sẽ thiếu đi chứng cứ cần thiết cho công tác điều tra, xác minh. Do đó, nên thống nhất thời hạn lưu trữ cho tất cả các giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng và bản chính văn bản công chứng, vì tranh chấp trong hoạt động công chứng có thể phát sinh sau nhiều năm, chứ không chỉ trong một vài năm đầu.

6. Về quy định thu thù lao công chứng và các chi phí khác tại Điều 57 Luật Công chứng 2006

Hiện nay, các tổ chức hành nghề công chứng được tự xác định mức thù lao công chứng khác và thỏa thuận với người yêu cầu công chứng về các chi phí khác. Quy định này chưa thực sự hợp lý vì dù mức thù lao và chi phí được xác định hay thỏa thuận như thế nào, người chịu thiệt thòi cuối cùng vẫn là người yêu cầu công chứng. Hơn nữa, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng.

luat-cong-chung-2006
Quy định về chế độ lưu trữ hồ sơ công chứng

Để khắc phục tình trạng này, nên quy định một mức giá chung cho thù lao công chứng và các chi phí khác áp dụng thống nhất cho tất cả các tổ chức hành nghề công chứng trên toàn quốc, hoặc ít nhất là trong phạm vi một địa phương. Điều này sẽ tránh được tình trạng chênh lệch chi phí, nơi thì người dân được hưởng mức phí thấp, nơi thì phải chịu mức phí cao, đảm bảo sự công bằng trong việc tiếp cận dịch vụ công chứng.

7. Về quy định việc khiếu nại trong hoạt động công chứng tại Điều 63 Luật Công chứng 2006

Điều 63 Luật Công chứng 2006 hiện chỉ quy định một trường hợp giải quyết khiếu nại duy nhất là khiếu nại hành vi từ chối công chứng của công chứng viên. Trong khi đó, thực tế hoạt động công chứng phát sinh rất nhiều trường hợp khiếu nại khác, ví dụ như: khiếu nại hành vi công chứng trái pháp luật của công chứng viên, khiếu nại hành vi thu phí công chứng sai quy định của tổ chức hành nghề công chứng,…

Khi gặp những trường hợp khiếu nại không được quy định cụ thể trong Điều 63, việc áp dụng Luật Công chứng sẽ dẫn đến những cách hiểu khác nhau:

  • Thứ nhất: Giải quyết theo Luật Khiếu nại, tố cáo.
  • Thứ hai: Khởi kiện ra Tòa án theo Điều 45 Luật Công chứng.
  • Thứ ba: Giải quyết tương tự theo Điều 63 Luật Công chứng.

Sự thiếu rõ ràng trong quy định đã gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng trong việc giải quyết khiếu nại, dẫn đến tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.

Luật công chứng 2006 đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác nhận tính hợp pháp của các giao dịch dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, Luật công chứng 2006: Những điểm bất cập đã bộc lộ một số vấn đề cần được xem xét và sửa đổi để phù hợp với thực tiễn và bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia giao dịch. Các bất cập này có thể gây khó khăn cho người dân trong việc thực hiện các thủ tục công chứng, dẫn đến những rủi ro pháp lý không mong muốn.

Nếu bạn gặp phải vấn đề liên quan đến công chứng hoặc cần tư vấn pháp lý, đừng ngần ngại liên hệ với Pháp Luật Việt. Chúng tôi luôn sẵn sàng cung cấp hỗ trợ tận tình và giúp bạn giải quyết mọi vấn đề pháp lý nhanh chóng và hiệu quả. Gọi ngay hotline: 1900 996616 để nhận tư vấn miễn phí từ các chuyên viên tư vấn luật!

Theo dõi chúng tôi:

Tìm kiếm