Luật Đấu thầu 2005, có hiệu lực từ ngày 01/04/2006 đã tạo khung pháp lý quan trọng cho hoạt động đấu thầu, thúc đẩy cạnh tranh, công bằng và minh bạch. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực thi, luật đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu thầu. Bài viết sẽ phân tích những hạn chế chính của luật này.
Mục lục
- 1. Quy định về các hình thức lựa chọn nhà thầu còn chưa đầy đủ và linh hoạt, thiếu tính thực tiễn
- 2. Quy trình đấu thầu còn rườm rà, phức tạp, tốn kém thời gian và chi phí
- 3. Quy định về đánh giá hồ sơ dự thầu còn thiếu sót, chưa đảm bảo tính khách quan, minh bạch
- 4. Quy định về xử lý vi phạm trong Luật Đấu thầu 2005 còn chưa đủ sức răn đe, thiếu tính khả thi
- 5. Thiếu quy định về đấu thầu qua mạng – Hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin
1. Quy định về các hình thức lựa chọn nhà thầu còn chưa đầy đủ và linh hoạt, thiếu tính thực tiễn
Luật đấu thầu 2005 quy định 6 hình thức lựa chọn nhà thầu bao gồm: đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp và tự thực hiện. Tuy nhiên, các quy định về điều kiện áp dụng các hình thức này còn cứng nhắc, chưa bao quát hết các trường hợp thực tế, gây khó khăn cho việc lựa chọn hình thức phù hợp, đặc biệt là đối với các dự án có tính chất đặc thù, quy mô nhỏ hoặc yêu cầu kỹ thuật cao.

- Hạn chế trong việc áp dụng chỉ định thầu (Điều 20):
-
- Điều kiện chỉ định thầu chưa rõ ràng: Luật quy định các trường hợp được chỉ định thầu như: “gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài”, “gói thầu mang tính chất bí mật quốc gia”, “gói thầu cấp bách” nhưng lại thiếu định nghĩa cụ thể, dẫn đến việc áp dụng tùy tiện, thiếu nhất quán, tạo “khe hở” cho việc lạm dụng chỉ định thầu làm giảm tính cạnh tranh và minh bạch.
-
- Thiếu cơ chế kiểm soát chặt chẽ: Quy trình thẩm định, phê duyệt chỉ định thầu chưa chặt chẽ, thiếu cơ chế giám sát độc lập, dẫn đến nguy cơ thông thầu, “sân sau” trong chỉ định thầu.
- Hạn chế trong việc áp dụng đấu thầu hạn chế (Điều 19): Điều kiện mời thầu hạn chế chưa cụ thể: Luật quy định đấu thầu hạn chế áp dụng cho “gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao hoặc có tính đặc thù” nhưng không định nghĩa rõ thế nào là “kỹ thuật cao”, “tính đặc thù”, dẫn đến việc áp dụng tùy tiện, hạn chế sự tham gia của các nhà thầu tiềm năng.
- Thiếu quy định về các hình thức lựa chọn nhà thầu mới, tiên tiến: Luật đấu thầu 2005 chưa cập nhật các hình thức lựa chọn nhà thầu hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế như: đấu thầu qua mạng (e-GP), đàm phán cạnh tranh, thỏa thuận khung… Việc thiếu các hình thức này làm hạn chế khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, giảm tính linh hoạt và hiệu quả trong đấu thầu.
2. Quy trình đấu thầu còn rườm rà, phức tạp, tốn kém thời gian và chi phí
Quy trình đấu thầu theo Luật đấu thầu 2005 được đánh giá là còn nhiều bước, nhiều thủ tục, qua nhiều cấp phê duyệt gây tốn kém thời gian và chi phí cho cả bên mời thầu và nhà thầu, làm giảm tính hấp dẫn của việc tham gia đấu thầu.
- Thời gian chuẩn bị hồ sơ dự thầu (HSDT) ngắn (Điều 32): Luật quy định thời gian tối thiểu để nhà thầu chuẩn bị HSDT là 15 ngày đối với đấu thầu trong nước và 30 ngày đối với đấu thầu quốc tế. Quy định này thường gây khó khăn cho các nhà thầu, đặc biệt là các nhà thầu nhỏ và vừa, trong việc chuẩn bị HSDT đầy đủ, chất lượng, nhất là đối với các gói thầu phức tạp, yêu cầu kỹ thuật cao.
- Thủ tục hành chính phức tạp, chồng chéo: Quy trình đấu thầu bao gồm nhiều bước như: lập kế hoạch đấu thầu, thẩm định kế hoạch đấu thầu, lập hồ sơ mời thầu, thẩm định hồ sơ mời thầu, phát hành hồ sơ mời thầu, đánh giá HSDT, thẩm định kết quả đấu thầu, phê duyệt kết quả đấu thầu… Mỗi bước lại yêu cầu nhiều loại giấy tờ, thủ tục theo quy định tại các thông tư đấu thầu, qua nhiều cấp thẩm định, phê duyệt, dẫn đến sự chồng chéo, mất nhiều thời gian và chi phí.
- Thiếu quy định cụ thể về thời gian tối đa cho từng bước trong quy trình đấu thầu: Luật chỉ quy định thời gian tối thiểu cho một số bước nhưng lại thiếu quy định về thời gian tối đa, dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian thực hiện đấu thầu, ảnh hưởng đến tiến độ dự án.
3. Quy định về đánh giá hồ sơ dự thầu còn thiếu sót, chưa đảm bảo tính khách quan, minh bạch
Luật đấu thầu 2005 chưa quy định đầy đủ, chi tiết và rõ ràng về các tiêu chí đánh giá HSDT, dẫn đến tình trạng đánh giá thiếu khách quan, thiếu minh bạch tạo điều kiện cho sự tùy tiện, cảm tính trong quá trình đánh giá.
- Thiếu quy định cụ thể về đánh giá năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu (Điều 29, 39): Luật chỉ quy định chung chung về việc đánh giá năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu dựa trên các tiêu chí như: vốn điều lệ, doanh thu, nhân sự, thiết bị… mà không có hướng dẫn cụ thể trong cá thông tư đấu thầu về cách thức đánh giá, trọng số điểm cho từng tiêu chí, dẫn đến việc đánh giá thiếu thống nhất, thiếu khách quan, dễ xảy ra tiêu cực.
- Chưa chú trọng đến yếu tố giá cả hợp lý, hiệu quả kinh tế – kỹ thuật: Luật đấu thầu 2005 còn nặng về tiêu chí giá thấp nhất mà chưa chú trọng đúng mức đến yếu tố giá cả hợp lý, phù hợp với chất lượng, hiệu quả kinh tế – kỹ thuật của gói thầu. Điều này dẫn đến tình trạng nhà thầu bỏ giá thấp để trúng thầu, sau đó thi công kém chất lượng, ảnh hưởng đến chất lượng công trình và hiệu quả sử dụng vốn nhà nước.
- Thiếu quy định về việc công khai, minh bạch thông tin trong quá trình đánh giá HSDT: Luật chưa quy định rõ ràng về việc công khai thông tin liên quan đến quá trình đánh giá HSDT, như: danh sách nhà thầu đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, điểm số của từng nhà thầu… Điều này làm giảm tính minh bạch trong đấu thầu, tạo nghi ngờ về sự công bằng trong quá trình đánh giá.

4. Quy định về xử lý vi phạm trong Luật Đấu thầu 2005 còn chưa đủ sức răn đe, thiếu tính khả thi
Luật Đấu thầu 2005 quy định các chế tài xử lý vi phạm trong đấu thầu còn nhẹ, chưa tương xứng với mức độ vi phạm, chưa đủ sức răn đe, dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật về đấu thầu còn diễn ra phổ biến, ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác đấu thầu.
- Mức phạt vi phạm hành chính còn thấp: Mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm hành chính trong đấu thầu còn thấp, chưa tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả gây ra. Ví dụ, mức phạt tiền tối đa đối với hành vi thông thầu chỉ là 200 triệu đồng (Điều 73), chưa đủ sức răn đe đối với các nhà thầu lớn.
- Thiếu cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra hiệu quả: Cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về đấu thầu còn thiếu hiệu quả, chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục, dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật về đấu thầu khó bị phát hiện và xử lý kịp thời.
- Khó khăn trong việc áp dụng hình thức cấm tham gia đấu thầu: Luật quy định hình thức cấm tham gia đấu thầu đối với các nhà thầu vi phạm nghiêm trọng, nhưng quy trình, thủ tục để áp dụng hình thức này còn phức tạp, thiếu hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc khó áp dụng trong thực tế.
5. Thiếu quy định về đấu thầu qua mạng – Hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin
Luật đấu thầu 2005 hoàn toàn chưa đề cập đến đấu thầu qua mạng (e-GP), trong khi đây là xu hướng tất yếu trong thời đại công nghệ thông tin và đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Việc thiếu quy định về đấu thầu qua mạng đã hạn chế khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động đấu thầu, làm giảm tính minh bạch, hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí.
- Hạn chế trong việc tiếp cận thông tin đấu thầu: Việc thiếu quy định về đấu thầu qua mạng khiến cho việc tiếp cận thông tin đấu thầu của các nhà thầu, đặc biệt là các nhà thầu ở vùng sâu, vùng xa, gặp nhiều khó khăn.
- Giảm tính minh bạch, công khai: Đấu thầu truyền thống tiềm ẩn nhiều nguy cơ tiêu cực, thông thầu do thiếu sự minh bạch trong quá trình đấu thầu. Đấu thầu qua mạng với tính năng công khai, minh bạch thông tin sẽ góp phần hạn chế tình trạng này.
- Tăng chi phí, giảm hiệu quả: Đấu thầu truyền thống tốn kém nhiều chi phí in ấn, đi lại, lưu trữ hồ sơ… Đấu thầu qua mạng sẽ giúp tiết kiệm đáng kể các chi phí này, đồng thời nâng cao hiệu quả của công tác đấu thầu.
Luật Đấu thầu 2005 đã bộc lộ nhiều hạn chế trong quy trình lựa chọn nhà thầu, đấu thầu qua mạng và xử lý vi phạm, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn nhà nước. Những bất cập này làm giảm tính cạnh tranh, minh bạch gây khó khăn cho các bên liên quan. Việc sửa đổi, bổ sung đã dẫn đến sự ra đời của Luật Đấu thầu 2013, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế.
Nếu bạn cần thêm thông tin hoặc có bất kỳ câu hỏi nào, hãy liên hệ trực tiếp với Pháp Luật Việt qua hotline 1900 996616 để được tư vấn chi tiết. Chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ bạn giải đáp mọi thắc mắc về các vấn đề pháp lý liên quan. Đừng ngần ngại liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất!